1. Đại cương:
Có rất nhiều khái niệm về vết thương như: “Vết thương phần mềm chỉ các thương tích gây rách da và gây tổn thương mô liên kết dưới da, gân và cơ”. Hoặc: “Vết thương được xem như sự gián đoạn trong sự liên tục của tế bào. Sự lành vết thương là sự phục hồi của sự liên tục đó”.
– Phẫu thuật: do vết rạch hay cắt lọc.
– Chấn thương: do cơ học, do nhiệt độ, do hoá chất.
– Tại chỗ: Ô nhiễm, dị vật, kỹ thuật khâu có sai sót, mô mất sinh lực, tụ máu, nhiễm trùng từ trước, vị trí nơi giải phẫu ở vùng thiếu máu nuôi hay đang có sự hiện diện của vi khuẩn khi đóng vết mổ: thường do vi khuẩn Staphy-lococcus aureus. Vết thương do tỳ đè, do bệnh tiểu đường; do kỹ thuật giải phẫu như vết thương hở đóng chậm, mô giập nát rộng, vết khâu căng, vết thương có dẫn lưu.
– Toàn thân: Suy kiệt, mất nước, thiếu máu, thiếu dinh dưỡng, tuổi cao, béo phì, choáng, có bệnh mạn tính kèm theo, suy hô hấp, suy tuần hoàn, ung thư, thuốc, sự trì hoãn trước mổ kéo dài, phẫu thuật kéo dài.
4. Triệu chứng:
4.1. Nhiễm trùng bề mặt của vết mổ
Mô liên quan: da và mô dưới da.
Dấu hiệu và triệu chứng:
+ Mủ chảy ra từ bề mặt vết mổ.
+ Dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng: đau, sưng, đỏ, nóng.
4.2. Nhiễm trùng sâu trong vết mổ
– Mô liên quan: mô mềm sâu trong vết mổ.
– Dấu hiệu và triệu chứng:
+ Mủ chảy ra từ sâu trong vết mổ nhưng không từ cơ quan hay khoang của cơ thể.
+ Vết mổ tự động vỡ ra hay do phẫu thuật viên mở ra khi người bệnh có ít nhất các triệu chứng sau: sốt > 380C, đau tại chỗ vết mổ.
Có áp-xe hay có bằng chứng khác của nhiễm trùng.
4.3. Nhiễm trùng cơ quan hay khoang cơ thể
– Mô liên quan: bất kỳ tạng nào của thì giải phẫu được mở ra hay do dùng tay trong giải phẫu.
– Dấu hiệu và triệu chứng:
+ Mủ chảy ra từ ống dẫn lưu đặt trong khoang hay cơ quan cơ thể.
+ Áp-xe hay có bằng chứng khác của nhiễm trùng.
+ Được chẩn đoán bởi bác sĩ.
5. Biến chứng:
5.1. Chảy máu, tụ máu: thường do tình trạng cầm máu trong phẫu thuật chưa được an toàn, do người bệnh suy dinh dưỡng bục chỗ khâu cầm máu, hay do điều dưỡng tháo băng quá sớm trong những trường hợp băng ép cầm máu. Và việc tháo băng người bệnh không đúng cũng có nguy cơ chảy máu vết thương.
5.2. Nhiễm khuẩn vết thương là vấn đề lớn trong bệnh viện do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân: do tình trạng vết thương, do kỹ thuật khâu, do môi trường bệnh viện, do không tuân thủ tình trạng vô khuẩn khi chăm sóc…
5.3. Rò, vết thương không lành thường xảy ra ở người bệnh suy kiệt, choáng, người bệnh ung thư, AIDS, nhiễm trùng, lao…
5.4. Vết thương hở: trong tình trạng nhiễm trùng nặng có nhiều mủ, bẩn, cần được chăm sóc như rạch áp-xe, …
5.5. Sẹo xấu
Sẹo lồi: to, dày, chắc, căng, màu tím, đỏ ngứa, không tự khỏi.
Sẹo phì đại: do sự phát triển không ổn định, không bình thường của chất tạo keo và mô xơ. Sẹo trở nên dày, chắc, ít di động, cảm giác căng da. Có thể tự khỏi sau 2–3 tháng.
Sẹo co rút: do sự phân bổ không đều của sợi tạo keo.
Sẹo ung thư hoá: căng nứt, loét kéo dài.
6. Điều trị
– Loại bỏ dị vật, mô giập: bất kỳ vết thương nào cũng có sự hiện diện của vi khuẩn, do đó loại bỏ mô giập, lấy sạch máu tụ, dị vật là cắt đứt nguồn cung cấp thức ăn cho vi khuẩn; luôn giữ tình trạng vô khuẩn, tránh đem thêm vi khuẩn mới vào.
– Mở rộng vết thương dẫn lưu tốt: sự ứ đọng dịch, máu cũ, dị vật,… cung cấp thức ăn cho vi khuẩn. Sự ứ dịch làm mô vết thương không có khả năng tăng sinh mô hạt. Vì thế cần dẫn lưu dịch thật tốt để kích thích mô hạt mọc đẩy nhanh quá trình lành vết thương.
– Giúp vết thương mau lành: Bất kỳ vết thương nào cũng có hàng rào bảo vệ nên khi chăm sóc vết thương điều dưỡng không nên phá huỷ hàng rào tự vệ đó như: tránh làm tổn thương vùng xung quanh vết thương, không luôn chạm tới vết thương; thay băng thường xuyên không đúng kỹ thuật, như tháo băng cũ cũng là hình thức tổn thương mô hạt vừa hình thành và như thế chúng ta vừa tạo thêm cho người bệnh một vết thương mới. Dung dịch sát khuẩn là hàng rào bảo vệ tránh vi khuẩn xâm nhập nhưng nó cũng có nguy cơ làm tổn thương mô hạt nên không dùng dung dịch sát khuẩn bôi lên vết thương nếu không có chỉ định. Vết thương luôn tiết dịch nên việc giữ ẩm vết thương là cần thiết nhưng không phải là làm ướt vết thương, do đó điều dưỡng cần thay băng khi thấm ướt. Khi có vết thương, người bệnh rất đau, điều dưỡng chú ý tránh làm đau người bệnh khi thay băng, nên thực hiện thuốc giảm đau trước khi thay băng nếu nhận định vết thương có thể làm người bệnh đau.
7. Phòng bệnh
– Sử dụng quần áo, giày dép thích hợp: Thay đôi giày thể thao của bạn khi chúng bị mòn. Mặc quần áo rộng rãi, thoải mái để bạn tự do di chuyển và đủ nhẹ để giải phóng nhiệt cơ thể.
– Xây dựng một chương trình thể dục cân bằng kết hợp tập thể dục tim mạch, rèn luyện sức bền và sự dẻo dai. Cho dù bạn ít vận động hay đang có thể trạng tốt, đừng cố gắng tham gia quá nhiều hoạt động cùng một lúc. Tốt nhất là không thêm nhiều hơn một hoặc hai hoạt động mới cho mỗi lần tập luyện.
– Khởi động để chuẩn bị cho bài tập, ngay cả trước khi kéo căng. Chạy tại chỗ trong vài phút, hít thở chậm và sâu hoặc nhẹ nhàng tập lại các chuyển động của bài tập để làm theo. Khởi động làm tăng tốc độ tim và lưu lượng máu, đồng thời nới lỏng cơ, gân, dây chằng và khớp.
– Uống đủ nước để ngăn ngừa tình trạng mất nước, kiệt sức và đột quỵ do nhiệt. Uống 1 lít nước 15 phút trước khi bạn bắt đầu tập thể dục và một lít nước khác sau khi bạn hạ nhiệt. Uống nước sau mỗi 20 phút hoặc lâu hơn trong khi bạn tập thể dục.
– Làm chậm chuyển động của bạn và giảm cường độ chuyển động ít nhất 10 phút trước khi bạn dừng hoàn toàn.
– Bắt đầu kéo căng từ từ và cẩn thận cho đến khi đạt đến điểm căng cơ. Giữ mỗi động tác trong vòng 10 đến 20 giây, sau đó thả lỏng từ từ và cẩn thận. Hít vào trước mỗi lần kéo căng và thở ra khi bạn thả lỏng. Luôn duy trì sự kiểm soát và không bao giờ nảy lên cơ đã căng hoàn toàn.
– Lên lịch những ngày thường xuyên không tập thể dục mạnh và nghỉ ngơi khi mệt mỏi. Mệt mỏi và đau đớn là những lý do chính đáng để không tập thể dục.
– Tránh tập quá sức: Cố gắng dành ít nhất 30 phút hoạt động thể chất vừa phải mỗi ngày.
Hầu hết các chấn thương mô mềm là kết quả của một chuyển động đột ngột hoặc không kiểm soát được. Cho dù là chấn thương cấp tính hay mạn tính, nếu bạn gặp phải bất kỳ chấn thương hay sự cố nào thì cũng nên đi khám bác sĩ để đề phòng các tổn thương nặng thêm.