Ho gà là một bệnh nhiễm trùng cấp tính đường hô hấp có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất và có thể gây tử vong ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ < 6 tháng tuổi.
Bệnh lây truyền chủ yếu qua các giọt dịch tiết đường hô hấp từ những bệnh nhân bị nhiễm, đặc biệt là trong giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn khởi phát. Bệnh rất dễ lây và gây bệnh ở ≥ 80% trẻ em có tiếp xúc gần. Thanh thiếu niên và người lớn không được bảo vệ thường là nguồn lây nhiễm cho trẻ sơ sinh < 1 tháng tuổi (những trẻ có tỷ lệ mắc hàng năm tăng cao nhất và tỷ lệ tử vong cao nhất).
Thời kỳ ủ bệnh trung bình từ 7 đến 14 ngày (tối đa 3 tuần). B. pertussis xâm nhập niêm mạc đường hô hấp, làm tăng tiết chất nhầy, ban đầu mỏng và sau đó là nhớt, dai và dính. Trường hợp bệnh không xảy ra biến chứng, thời gian mắc kéo dài khoảng 6 đến 10 tuần và bao gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn khởi phát: Bắt đầu một cách mạnh mẽ, thường là hắt hơi, chảy nước mắt, hoặc sổ mũi; chán ăn; bơ phờ; ho khan về đêm dần dần ho cả ngày. Có thể khàn tiếng. Sốt là rất hiếm.
Giai đoạn toàn phát bắt đầu với sự gia tăng mức độ nghiêm trọng, tần suất ho lặp đi lặp lại ≥ 5 cơn ho nặng xuất hiện liên tiếp trong 1 nhịp thở ra, tiếp theo đó là cơn ho rũ rượi, liên tục không thể kìm hãm sau đó là giai đoạn thở rít như tiếng gà gáy. Cuối cơn ho thường chảy nhiều đờm giãi trong suốt, nôn mửa là đặc trưng. Ở trẻ sơ sinh, chứng nghẹt thở (có hoặc không có xanh tím) có thể phổ biến hơn nhiều.
Triệu chứng giảm đi khi giai đoạn hồi phục bắt đầu.
Ho có thể tái phát trong nhiều tháng, thường gây ra ở đường hô hấp còn nhạy cảm do kích ứng từ nhiễm trùng đường hô hấp trên.
Các biến chứng
Biến chứng hô hấp, bao gồm ngạt thở ở trẻ sơ sinh là phổ biến nhất. Viêm tai giữa xảy ra thường xuyên. Viêm phế quản phổi (phổ biến ở người lớn tuổi) có thể gây tử vong ở mọi lứa tuổi. Động kinh thường xảy ra ở trẻ nhỏ nhưng hiếm gặp ở trẻ lớn.
Xuất huyết não, mắt, da và màng nhầy có thể là hậu quả của các cơn kịch phát và hậu quả gây ra chứng khô miệng. Xuất huyết não, phù não và viêm não có thể khiến bệnh nhân tê liệt, khiếm khuyết trí tuệ (rối loạn tâm thần) hoặc rối loạn thần kinh khác. Thoát vị rốn và trực tràng đôi khi xảy ra.
Phòng bệnh ho gà
Ho gà rất dễ lây truyền do tiếp xúc trực tiếp qua đường hô hấp có các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng bệnh nhân khi ho, hắt hơi, và khả năng lây truyền rất cao đối với những người sinh hoạt trong cùng một không gian như hộ gia đình, trường học… Vì vậy, bên cạnh việc tiêm phòng cần lưu ý thực hiện tốt các biện pháp khác như:
– Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng. Che miệng khi ho hoặc hắt hơi.
– Giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng cho trẻ hàng ngày.
– Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
– Hạn chế để trẻ đến những nơi đông người, tránh tiếp xúc với những người bị bệnh đường hô hấp, đặc biệt là người bệnh ho gà.
– Chủ động tiêm vaccine phòng bệnh ho gà. Cha mẹ cần lưu ý đưa trẻ đi tiêm chủng vaccine phòng bệnh ho gà đầy đủ, đúng lịch:
– Mũi thứ 1: Tiêm khi trẻ 2 tháng tuổi.
– Mũi thứ 2: Sau mũi thứ nhất 1 tháng.
– Mũi thứ 3: Sau mũi thứ hai 1 tháng.
– Mũi thứ 4: Khi trẻ 18 tháng tuổi.
Cách tốt nhất để phòng ho gà ở trẻ là tiêm phòng vắc- xin.
Đối với trẻ khi sinh ra từ các bà mẹ không có kháng thể phòng bệnh ho gà có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với trẻ nhận được kháng thể từ mẹ. Vì vậy, để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ tuổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vaccine phối hợp phòng bệnh uốn ván – bạch hầu – ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai. Sau khi được tiêm phòng vaccine, cơ thể bà mẹ sẽ tạo ra các kháng thể cần thiết và truyền cho em bé trước khi sinh. Những kháng thể này giúp bảo vệ em bé chống lại bệnh bạch hầu, uốn ván, ho gà trong vài tháng đầu đời.
Bệnh ho gà thường xảy ra chủ yếu ở trẻ em dưới 6 tuổi. Trẻ càng nhỏ tuổi càng dễ mắc bệnh nặng và có nguy cơ mắc các biến chứng nguy hiểm. Vì vậy, khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh ho gà, cha mẹ cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời. Được điều trị càng sớm, trẻ càng nhanh khỏi và ít có nguy cơ bị biến chứng.